Nhiên liệu sinh học: Định hướng sai sẽ là thảm họa!
Vietnamnet, ngày 28/10/2007
Sau bài Phát triển nhiên liệu sinh học: Dù muộn, vẫn phải làm!, PGS-TS Hồ Sơn Lâm, Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu ứng dụng đã có bài viết gởi VietNamNet, trong đó, ông bày tỏ sự bức xúc trước một số vấn đề đang đặt ra trong định hướng phát triển nhiên liệu sinh học ở Việt Nam.
Theo đề nghị của Hội đồng Chính sách Khoa học & Công nghệ Quốc gia (HĐCSKHCNQG), Chính phủ đã giao cho Bộ Công thương soạn thảo "Một số định hướng chính sách đầu tư phát triển và sử dụng nhiên liệu sinh học ở Việt Nam“..
Văn bản trên đã được trình bày tại hội thảo khoa học do Hội đồng chính sách Khoa học và Công nghệ quốc gia (HĐCSKHCNQG) tổ chức vào ngày 26/10, và được đông đảo các cơ quan, doanh nghiệp, các nhà khoa học quan tâm đến lĩnh vực này đón nhận với nhiều đánh giá khác nhau. Bản thân tôi, hoàn toàn nhất trí với sự đánh giá về tầm quan trọng của nhiên liệu có nguồn gốc sinh học ở Việt Nam, như đã được giới thiệu trong văn bản nói trên của Bộ Công thương.
Có thể nói rằng, Việt Nam đang đi sau 40 - 45 quốc gia trên thế giới với khoảng cách từ 10 -15 năm trong lĩnh vực này. Để đuổi kịp các nước, Việt Nam cần một chiến lược phát triển rõ ràng, cụ thể với lộ trình được vạch ra một cách một cách khoa học, có tính khả thi cao. Tuy nhiên, trong văn bản nói trên của Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công thương), những đề xuất nêu ra còn chung chung và quá chậm chạp về tiến độ. Hơn nữa, vẫn mang nặng hình thức quản lý với quá nhiều bộ, ngành, trong khi thiếu hẳn những cơ quan trực tiếp thực thi.
Điều này được thể hiện rõ khi trong văn bản trên, đã không thấy đề cập đến sự tham gia của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam trong việc phát triển nhiên liệu sinh học cho đất nước. Trong khi đó, đây lại là một cơ quan tập trung nhiều đơn vị có tiềm lực về thiết bị, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có chất lượng ngang tầm quốc tế. Tương tự, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư nhiều triệu đô la cho việc trồng nguyên liệu, cơ sở nhà xưởng, máy móc thiết bị, chuẩn bị sẵn sàng cho công cuộc phát triển nhiên liệu sinh học cũng không thấy được đề cập đến. Từ thực tế đó, tôi xin được trình bày một số quan điểm của mình liên quan đến việc phát triển nhiên liệu có nguồn gốc sinh học ở Việt Nam để các cấp có thẩm quyền xem xét.
Giờ "G" và "ai" điều phối: Không định rõ, sẽ có rối loạn...
Hội thảo lần thứ nhất về "Nhiên liệu có nguồn gốc sinh học ở Việt nam“ vào tháng 8/2006 tại TP.HCM do Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam chủ trì đã được nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, trường đại học, doanh nghiệp từ khắp cả nước quan tâm, tham dự và trao đổi ý kiến một cách thẳng thắn, xây dựng. Sau hội thảo, một số vấn đề được đặt ra là: Nhà nước có chủ trương sử dụng nhiên liệu sinh học ở Việt Nam hay không? Nếu có thì bao giờ thực hiện? Các chế độ chính sách cho việc phát triển nhiên liệu sinh học? Tiêu chuẩn chất lượng loại nhiên liệu này của Việt Nam ? Cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc phối trộn và phân phối?
Thông điệp đó đã được HĐCSKHCNQG cũng như một số cơ quan quản lý Nhà nước khác tiếp thu và thực hiện khá nhanh, như HĐCSKHCNQG đã có văn bản trình Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã hoàn thành bộ Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam về nhiên liệu sinh học.... Thế nhưng, nhìn chung cho đến nay đã 2 năm trôi qua mà những vấn đề cơ bản nhất vẫn chưa có lời giải như: Thời điểm cụ thể nào sẽ áp dụng việc sử dụng nhiên liệu sinh học ở Việt Nam? Cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc tiếp nhận, phối trộn và phân phối trên lãnh thổ Việt Nam? Không giải quyết được hai vấn đề trên, mọi chủ trương, chính sách sẽ chỉ là chủ trương, chính sách trên giấy.
Tại sao lại như vậy? Xin thưa: Nhiên liệu sinh học bao gồm 2 loại: Cồn tuyệt đối pha xăng (biofuel) và este của dầu béo pha diesel (biodiesel). Nếu chưa có lộ trình cụ thể, không một doanh nghiệp nào muốn đầu tư tiền tỷ rồi ngồi chờ lúc nào đến giờ G sẽ thực hiện. Có thể sẽ xẩy ra tình trạng nhiều doanh nghiệp sẽ liên doanh với đối tác nước ngoài để trồng nguyên liệu, sau đó nguyên liệu thô sẽ xuất ra nước ngoài. Khi Việt Nam cần, lại phải nhập về.
Nếu chưa có một cơ quan chính chịu trách nhiệm điều phối nguồn nhiên liệu này ở cấp độ quốc gia, có thể có một số doang nghiệp nào đó tự mình sản xuất, tự mình tiêu thụ, như vậy sẽ xẩy ra tình trạng không quản lý được chất lượng sản phẩm trên thị trường tự do, hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng như đã từng xảy ra ở vùng biển phía nam. Cần lưu ý rằng, nếu sử dụng cồn (E 100) có thể trực tiếp phối trộn tại nơi phân phối, nhưng nếu sử dụng biodiesel (B 100) thì trước đó phải phối trộn, phải có những điều kiện kỷ thuật nhất định và rất nghiêm ngặt.
Nhiên liệu sinh học không phải chỉ là este dầu béo hay cồn khan, phối trộn với dầu diesel hay xăng, mà cần thiết phải có các phụ gia đặc biệt khác để bảo đảm tính đồng pha, hệ số cháy nổ ổn định, chống oxy hóa... Biodiesel không phải cứ pha 5-20% vào bất cứ loại diesel nào cũng được. Những loại dầu diesel có hàm lượng lưu hùynh cao sẽ làm cho hỗn hợp tách pha sau một thời gian để trong bồn chứa. Các loại dầu diesel sử dụng cho các mục đích khác nhau (xe ôtô con, xe tải nặng, xe ủi, máy tàu, máy phát điện...) có các tính chất rất khác nhau, vì vậy, loại diesel dùng để pha cho một mục đích nào đó, phải ổn định và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Cho nên không thể để cho việc cơ quan nào cũng tự phối chế, đó sẽ là thảm họa quốc gia trong tương lai. Nếu vài triệu lít diesel bị hỏng, việc tái chế nó là không đơn giản, không biết đã có cơ quan quản lý Nhà nước nào tính đến vấn đề này chưa?
Không phải là trồng cây nào mà là công nghệ nào
Đối với biodiesel, hiện nay, nhiều nhà khoa học, doanh nghiệp đang đầu tư cho việc trồng cây dầu mè. Đây là một hướng đi rất có triển vọng ở Việt Nam. Trong tương lai không xa, cây này có thể là nguồn nguyên liệu chính để sản xuất biodiesel. Tuy nhiên, không thể không tính đến các loại cây có dầu khác. Không thể nói rằng loại dầu này hay loại dầu kia mới là nguyên liệu chính cho biodiesel.
Quan điểm của chúng tôi từ trước đến nay là sử dụng tất cả các lọai dầu béo (tất nhiên, trừ các loại dầu thực phẩm vì lý do kinh tế) và qua công nghệ chế biến để có được một hỗn hợp có mạch hydrocacbon C12-C16 chiếm gần 40% và C18-C22 chiếm gần 60%. Xin nói thêm, một mẫu như vậy, trong thực tế chỉ có ở phần cùi của dầu cọ, loại cây trồng nhiều ở Malaixia.
Về công nghệ: Công nghệ sản xuất biodiesel không phải là khó và các nhà khoa học Việt Nam không phải không tự chế tạo thiết bị được. Vấn đề là ở chổ, công nghệ đó có hiệu quả đến mức nào? Nhiều doanh nghiệp cho rằng để bảo đảm sản xuất, tốt nhất là nhập công nghệ của nước ngoài.
Tôi không phản đối ý tưởng đó! Tuy nhiên, theo các nghiên cứu của chúng tôi, dầu thực vật Việt Nam có nhiều điểm khác với dầu thực vật của nước ngoài. Để có thể áp dụng công nghệ nước ngoài, dầu thực vật Việt Nam phải qua các khâu tinh chế rất cẩn thận, trong khi hầu hết các cơ sở ép dầu của ta còn thủ công, nhiều loại dầu có chỉ số axít cao. Như vậy, chỉ riêng khâu nguyên liệu đầu vào, phải chi phí khá tốn kém, chưa kể đến vấn đề xử lý môi trường (nếu dùng các lọai xúc tác có tính kiềm như của một số nước).
Các chi phí trên thường rất cao và phải mua riêng. Nếu mua chung thì giá trị của toàn bộ công nghệ rất cao. Trong khi ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học của ta đang đi những bước đầu tiên, nên chăng sử dụng công nghệ của Việt Nam là phù hợp trong giai đoạn này? Cần phải áp dụng công nghệ không bả thải trong sản xuất nhiên liệu liệu sinh học, kể cả sản xuất cồn khan, lẫn biodiesel.
Chỉ có như vậy mới tránh được những biến động giá cả mà một số nước đang gặp phải. Vì mục đích nhiên liệu, Nhà nước phải bù lỗ cho trồng và sản xuất nhiên liệu sinh học. Khi không thể tiếp tục bù lỗ, giá nguyên liệu tăng cao, dẫn đến giá nhiên liệu cũng tăng cao, dẫn đến tình trạng phá sản của cả một chương trình mang tính xã hội và môi trường. Vì vậy, áp dụng công nghệ không bả thải là phương thức duy nhất làm chủ giá cả, tránh tình trạng tăng giá nguyên liệu, trong khi Nhà nước không cần phải bù lỗ, người sản xuất nguyên liệu cũng như người mua nguyên liệu tự mình tuân thủ qui luật thị trường, không ai phụ thuộc ai. Tóm lại, công nghệ sẽ quyết định giá thành sản phẩm, miễn doanh nghiệp có hay không tầm nhìn và sự tin tưởng vào con đường mình đã chọn.
PGS - TS Hồ Sơn Lâm