Biểu trưng NASA - Ảnh: wikipedia.orgTTO - Trong 50 năm qua, Cơ quan Hàng không vũ trụ Hoa Kỳ (NASA) đã giành được tiếng tăm rất lớn, như một người tiên phong về công trình, khoa học và kỹ thuật bằng cách đẩy mạnh khoa học đến cùng.
“Vì sứ mạng của chúng tôi là bay với tất cả các dạng của nó trong không gian và trong không trung, chúng tôi nghĩ và làm việc trong khoa công trình và khoa học ở những mức độ cao nhất - và chính từ đó những khám phá lớn lao nhất đã được thực hiện”, giám đốc NASA Michael Griffin nói trong một bài diễn văn hồi năm ngoái.
NASA bắt đầu thực hiện các sứ mạng không gian trong vài tháng kể từ khi được thành lập ngày 1-10-1958. “Trong 50 năm qua NASA đã thực hiện các chương trình to lớn trong việc đưa người lên không gian, đưa robot lên không gian và nghiên cứu hàng không vũ trụ”, Steve Dick, người phụ trách lịch sử của Cơ quan Không gian Hoa Kỳ, nói.
Các chương trình của NASA, như sáu sứ mạng Apollo bắt đầu từ năm 1969 - 1972 và đã chứng kiến tổng cộng 12 phi hành gia Mỹ đặt chân lên Mặt trăng, không chỉ giúp thúc đẩy tiến bộ khoa học mà còn có một ảnh hưởng lớn lao đến việc con người thấy hành tinh của mình như thế nào.
"Ảnh hưởng sâu xa"“Ảnh hưởng của chương trình Apollo rất sâu xa, không chỉ trong cái nhìn về Trái đất từ Mặt trăng mà thôi - Dick nói - Các hình ảnh về Trái đất mọc lên’ và Trái đất tròn như một khối cẩm thạch màu xanh dương lơ lửng trong không gian, mỏng manh và không có biên giới quốc gia, đã thay đổi quan điểm của loài người về Trái đất mãi mãi”, ông nói.
Sau Apollo, vốn là phản ứng của Mỹ đối với việc Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo Sputnik đầu tiên lên quỹ đạo Trái đất, người Mỹ và người Nga đã bước vào một thời kỳ ít cạnh tranh hơn trong không gian.
Thời kỳ này đạt đến cao trào năm 1975 khi các phi thuyền Apollo và Soyuz cặp vào nhau trong không gian, đánh dấu khởi đầu việc phát triển Trạm Không gian quốc tế (ISS). Năm 1988, hai khoang đầu tiên của ISS đã được phóng lên và gặp nhau trên quỹ đạo. Các khoang khác sau đó sớm được phóng lên và phi hành đoàn đầu tiên đã đến trạm không gian năm 2000.
Tàu con thoiThời kỳ quan trọng tiếp theo trong việc chinh phục không gian bắt đầu năm 1981 với việc phóng tàu con thoi, loại phi thuyền đầu tiên có khả năng bay lên quỹ đạo như một tên lửa và sau đó trở về Trái đất như một tàu lượn. Với tàu con thoi, NASA đã có thể chở những bộ phận lớn lên không gian để xây dựng ISS, nơi các thí nghiệm thực hiện trong tình trạng phi trọng lực đã giúp đưa loài người tiến gần hơn đến việc ở lại lâu dài trong không gian.
Tàu con thoi cũng được dùng để phóng các vệ tinh và các thiết bị vật lý thiên văn như kính viễn vọng Hubble, thứ đã gửi về Trái đất những hình ảnh tuyệt vời về các ngôi sao, các hành tinh, các thiên hà và các tinh vân. “Nói chung, thiên văn của NASA và tàu không gian nghiên cứu vật lý thiên văn từ những thăm dò đầu tiên của thập niên 1970 và 1980, cho đến các trạm quan sát lớn của thập niên 1990 và thế kỷ thứ 21, đã mang lại những bí ẩn của sự tiến hóa của vũ trụ từ vụ nổ lớn cho đến hiện tại”, Dick nói.
Những dụng cụ do vệ tinh"Cosmic Background Explorer" hoặc Cobe (1989-1993) đưa lên không gian đã mang lại những khám phá lớn về vũ trụ học và đã giúp các nhà khoa học hiểu các thiên hà và các chòm thiên hà hình thành như thế nào.
Giải NobelNhà vật lý John Mather của NASA đã chia sẻ giải Nobel vật lý năm 2006 với nhà khoa học George Smoot thuộc Đại học California ở Berkeley về công trình “nhìn lại thời niên thiếu của vũ trụ và những nỗ lực tìm hiểu nguồn gốc các thiên hà và các ngôi sao”, Viện hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển, cơ quan tặng các giải thưởng Nobel, nói. Công trình đoạt giải “dựa trên các đo lường được thực hiện với sự giúp sức của vệ tinh Cobe do NASA phóng lên năm 1989, theo viện hàn lâm nói trên.
Chín trong số 25 cuộc đột phá khoa học hàng đầu trong một phần tư thế kỷ qua đã đến từ không gian, và tám trong số này trực tiếp đến từ NASA, Griffin nói.
QUANG HƯƠNG (Theo SA)